Chuyện tranh luận thế thuận nghịch của vòng Tràng Sinh. Dương nam đi thuận chiều, Âm nam đi ngược chiều. Dương nữ đi ngược chiều và Âm nữ đi thuận chiều.
Vòng Tràng Sinh của Tử Vi, vì tính theo Cục (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) đưa đến tình trạng là cứ đi thuận thì Mộ khố mới hiện ra ở các cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi, trong khi đi ngược chiều thì không. Cho nên có đề nghị an Tràng Sinh phải giống như an vòng Thái Tuế, đều phải đi theo chiều thuận. Như thế sẽ không có thuận nghịch, và không có thuận nghịch thì cũng không có âm dương.
Khi nói về lý số mà không nói âm dương là khó ổn. Vì trên hàng Can cứ một Dương lại kèm một Âm. Tỷ dụ Giáp là Dương Mộc, thì Ất là Âm Mộc cứ thế cho đủ Ngũ hành.
Tranh luận thuận nghịch cho vòng Tràng Sinh không tìm thấy lối thoát. Vì an theo Cục thì tự nó không có sự phân bịêt Âm Dương nên phải căn cứ vào Âm nam Dương nữ thì lại đi trật đường của cung Mộ.
Trong khi số Tử Bình hay gọi nôm na là số Bát tự, lại tính chuyện Sinh,
Vượng, Tử, Tuyệt bằng chính hàng Can với Âm Dương thuận nghịch thì
Dương thuận hay Âm nghịch đều đưa cung Mộ vào chính vị của nó.
Để quý độc giả tham khảo tôi liệt kê cách tính trên của số Bát tự như dưới đây.
Tuổi Giáp (Mộc) Tràng Sinh tại Hợi thì Mộc Dục ở Tý, Quan Đới Sửu, Lâm Quan tại Dần, Đế Vượng đóng Mão, Suy ở Thìn, Bệnh tại Tỵ, Tử ở Ngọ, Mộ sang Mùi, Tuyệt đến Thân, Thai tại Dậu và Dưỡng đóng Tuất.
Tuổi Ất (Mộc) Tràng Sinh ở Ngọ (Theo cái nghĩa Dương tử Âm sinh khi mà Giáp Tử ở Ngọ thì Ất lại sinh ra ở đây). Mộc Dục sẽ là Tỵ, Quan Đới ở Thìn, Lâm Quan đóng Mão, Đế Vượng tới Dần, Suy ở Sửu, Bệnh đóng Tý, Tử ở Hợi (Dương sinh Âm Tử), Mộ đến Tuất, Tuyệt ở Dậu, Thai đóng Thân, Dưỡng sang Mùi, (Ất là Âm nên tính theo chiều ngược).
Bính, Mậu Hỏa Thổ thì Tràng Sinh tại Dần, Mộc Dục đóng Mão, Quan Đới về Thìn, Lâm Quan sang Tỵ, Đế Vượng ở Ngọ, Bệnh ở Thân, Tử đến Dậu, Mộ về Tuất, Tuyệt đóng Hợi, Thai ở Tý và Dưỡng đến Sửu. (Bính Hỏa Mậu Thổ là Dương nên đi theo chiều thuận).
Đinh Hỏa, Kỷ Thổ, Tràng Sinh ở Dậu (Dương từ Âm sinh ) Mộc Dục tại Thân, Quan Đới về Mùi, Lâm Quan sang Ngọ, Đế Vượng tại Tỵ, Suy đến Thìn, Bệnh về Mão, Tử ở Dần (Dương sinh Âm tử). Mộ về Sửu, Tuyệt tại Tý, Thai ở Hợi, Dưỡng qua Tuất.
Canh Kim Tràng Sinh tại Tỵ, Mộc Dục ở Ngọ, Quan Đới sang Mùi, Lâm Quan đến Thân, Đế Vượng ở Dậu, Suy ở Tuất, Bệnh qua Hợi, Tử tại Tý, Mộ đóng Sửu, Tuyệt ở Dần, Thai tới Mão, Dưỡng đến Thìn (Canh Kim là Dương nên tính thuận).
Tân Kim Trường Sinh đóng Tí (Dương từ Âm sinh) Mộc Dục ở Hợi, Quan Đới sang Tuất, Lâm Quan tại Dậu, Đế Vượng về Thân, Suy đến Mùi, Bệnh về Ngọ, Tử ở Tỵ, Mộ qua Thìn, Tuyệt về Mão, Thai ở Dần, Dưỡng tại Sửu (Tân đi theo chiều nghịch vì thuộc Âm).
Nhâm Thuỷ, Tràng Sinh an ở Thân, Mộc Dục đến Dậu, Quan Đới về Tuất,
Lâm Quan ở Hợi, Đế Vượng đến Tí, Suy sang Sửu, Bệnh đến Dần, Tử tại Mão,
Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ, Thai về Ngọ, Dưỡng tại Mùi (chiều thuận)
Quý Thuỷ, Tràng Sinh tại Mão (Dương từ, Âm sinh) Mộc Dục ở Dần, Quan Đới về Sửu, Lâm Quan sang Tý, Đế Vượng đến Hợi, Suy ở Tuất, Bệnh đến Dậu, Tử về Thân (Dươg sinh Âm tử) Mộ đến Mùi, Tuyệt ở Ngọ, Thai ở Tỵ, Dưỡng sang Thìn (Quý Thuỷ là Âm theo chiều nghịch).
Thu gọn lại như sau:
Dương Can Tràng Sinh có 4 chỗ: Dần cho Bính Mậu, Thân cho Nhâm, Tỵ cho Canh, Hợi cho Giáp.
Âm Can Tràng Sinh có bốn nơi: Tí cho Tân, Ngọ cho Ất, Mão cho Quý và Dậu cho Đinh.
Như thế cách an Tràng Sinh theo Cục thấy là gượng ép vì chỉ an theo nam hay nữ chứ không kể gì đến bản thân của can Dương hay can Âm. Câu hỏi đặt ra là: Có nên dùng thẳng Dương Âm của niên Can để an Tràng Sinh cho số Tử Vi không?
---Bài viết tham khảo thêm---
- Điện thoại: 0913 563 536
- Địa chỉ: Phan Trọng Tuệ - Thanh Trì - Hà Nội
- Đặt lịch luận giải lá số tử vi chuyên sâu